
“ Thơ là thu của lòng người, thu là thơ của đất trời”. Sẽ thật thiếu sót nếu nhắc tới mùa thu mà quên đi thơ Xuân Diệu bởi lẽ với riêng ông, mùa thu là một giai nhân.
Nàng thu của Xuân Diệu cũng buồn, nhưng là cái buồn lộng lẫy, kiêu sa, cái buồn hiu hắt bi thương nhưng vẫn dịu nhẹ, trẻ trung và rất đẹp. Nếu bắt buộc phải chọn ra một "nàng thu" tiêu biểu nhất của ông, tôi sẽ không ngần ngại chọn “ Nguyệt cầm”:
(đọc tiếp...)
“Trăng nhập vào dây cung nguyệt lạnh
Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần.
Đàn buồn, đàn lặng, ôi đàn chậm!
Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân.
Mây vắng, trời trong, đêm thuỷ tinh;
Linh lung bóng sáng bỗng rung mình
Vì nghe nương tử trong câu hát
Đã chết đêm rằm theo nước xanh.
Thu lạnh càng thêm nguyệt tỏ ngời,
Đàn ghê như nước, lạnh, trời ơi...
Long lanh tiếng sỏi vang vang hận:
Trăng nhớ Tầm Dương, nhạc nhớ người...
Bốn bề ánh nhạc: biển pha lê.
Chiếc đảo hồn tôi rợn bốn bề
Sương bạc làm thinh, khuya nín thở
Nghe sầu âm nhạc đến sao Khuê”.
Nhịp thơ 2/2/3 khiến ta liên tưởng đến những buồn thương mà đàn, trăng đã nói hộ thi sĩ, cứ nao nao, từng đợt, từng đợt như chực trào ra nơi khoé mắt. Âm thanh nguyệt cầm được cảm nhận sâu sắc chính bởi tâm hồn thi sĩ hoà nhập với tâm tình nghệ sĩ. Chính vì có trăng nhập vào đàn nên âm sắc rung lên vừa là âm, vừa là sắc. Mỗi cặp “trăng thương, trăng nhớ, trăng ngần” là một nốt đàn. “Đàn buồn, đàn lặng, đàn chậm” là sự thay đổi của nốt đàn, trên là trăng, dưới là đàn, trên là ánh sáng, dưới là âm thanh. Tất cả đều đạt đến sự tuyệt đối của âm sắc.
Các giai điệu “trăng - đàn”, “đàn - trăng” cứ lặp đi lặp lại dễ gảy cho ta cảm xúc buồn. Nếu như ở câu trên từ “ngần” đặt ở cuối câu là tiếng đàn dàn trải thì câu dưới từ “chậm” (thanh nặng) ở cuối câu tiếp theo từ “lặng” (thanh nặng) và “buồn” (thanh huyền) làm cho tiếng đàn như nghẹn lại, buồn thảm hơn. Những điệp khúc ấy cứ xoáy vào ta, da diết lạ kỳ. Tiếng đàn là sự đồng vọng của tiếng hồn bay tới vầng trăng, cái vầng trăng vẫn có tự muôn đời: trăng quá khứ, trăng của thực tại và trăng của những áng thơ ấy ...